Trưng bày

Từ một phong trào khởi nghĩa nông dân vùng lên đánh đổ ách áp bức nặng nề của các tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn, phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo thiên tài của người anh hùng áo vải Quang Trung đã vươn lên đảm nhận sứ mệnh đánh tan những đội quân xâm lược nước ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, thực hiện thống nhất đất nước. Đỉnh cao của phong trào là việc đánh tan gần 30 vạn quân xâm lược Mãn Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 mà trận chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa là một trận then chốt, có ý nghĩa quyết định trong việc đập tan kẻ thù xâm lược giải phóng Thăng Long.

Trong lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc ta, đó là một trong những chiến thắng vang dội nhất, một trận quyết chiến chiến lược xuất sắc tiêu biểu cho ý chí quyết thắng và sức sống mãnh liệt của dân tộc ta, chỉ trên dưới mười ngày chiến đấu, quân dân ta dưới sự lãnh đạo tuyệt vời của Quang Trung đã quét sạch gần 30 vạn quân xâm lược, giải phóng đất nước.

Trên cơ sở của những thành tựu nghiên cứu của giới sử học và kết quả sưu tầm của ngành Bảo tàng trong những năm qua, nhà trưng bày giới thiệu rộng rãi với công chúng một số tư liệu, hiện vật về phong trào Tây Sơn cùng tiến trình dẫn đến chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa nhằm góp phần giúp mọi người hiểu biết thêm về lịch sử to lớn đó của dân tộc.

Hiện vật tranh treo tường

Tranh Cây me – Giếng nước

Cây me cổ thụ, giếng nước cổ xưa trên nền nhà anh em Tây Sơn tam kiệt.

Giếng nước của thân phụ Nguyễn Huệ đào để dùng sinh hoạt gia đình ở xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định

Di tích Giếng nước được ghép bằng đá ong, đường kính 0,9m, thành giếng cao 0,8m. Năm 1998, xây nhà mái che cổ lầu, hình lục giác, chiều dài mỗi cạnh 3,45m, mái đổ bê tông dán ngói vảy, thành giếng được bảo vệ bằng khung gỗ hình lục giác cách điệu như những mắt trúc.

Cây me cổ thụ trong vườn nhà của gia đình anh em Nguyễn Huệ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn

Cây me trên dưới 300 năm tuổi, gốc có chu vi 3,9m, tán rộng đến 30 mét, cành lá rậm rạp, che mát cả góc vườn. Ngoài giá trị lâu năm, tạo cảnh quan, cây me còn có ý nghĩa đặc biệt về mặt văn hóa, lịch sử, là biểu tượng cho sức sống, sự trường tồn của phong trào Tây Sơn trong lòng dân tộc.

Tư liệu: Di tích lịch khu Điện thờ Tây Sơn tam kiệt – Trang web Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cục di sản văn hóa (15/05/2024)

Tranh Cây me – Giếng nước
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Vườn trầu

Vườn trầu (An Khê – Gia Lai) – Nơi ba em Nguyễn Huệ thường buôn bán trầu cau thời niên thiếu

Bến Trường Trầu là bến buôn bán trầu lớn bên bờ sông Côn xưa, thuộc xóm Trầu, thôn Kiên Mỹ, cách đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt khoảng 200m.

Trầu cau là sản phẩm nổi tiếng của cả hai vùng Tây Sơn thượng đạo và hạ đạo, đặc biệt là loại trầu nguồn do đồng bào Thượng trồng trên Tây Nguyên. Bến Trường Trầu trở thành nơi trung chuyển, quan hệ trao đổi buôn bán giữa miền núi và đồng bằng, ngoài trầu cau còn có nhiều mặt hàng thiết yếu khác. Gia đình ông Hồ Phi Phúc khi còn cư trú ở quê vợ – làng Phú Lạc, ngoài nghề nông còn tham gia buôn bán trao đổi với miền xuôi, miền ngược, nhờ vậy trở nên giàu có. Đến đời các con ông cũng tiếp nối sự nghiệp của cha, duy trì và mở rộng việc buôn bán, trao đổi.

Bến Trường Trầu với việc giao lưu buôn bán, đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp khởi nghĩa của ba anh em Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc thường qua lại vùng Tây Sơn thượng đạo, có quan hệ mật thiết với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, giao lưu buôn bán với các chợ, bến, thị tứ vùng đồng bằng. Điều này giúp cho ông mở rộng tầm nhìn, thấu hiểu nỗi thống khổ của các tầng lớp nhân dân, từ đó dễ dàng vận động, liên kết các lực lượng tham gia khởi nghĩa.

Tư liệu: Di tích lịch khu Điện thờ Tây Sơn tam kiệt – Trang web Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cục di sản văn hóa (15/05/2024)

Tranh Vườn trầu
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Ấp Tây Sơn

Ấp Tây Sơn (Phú An – An Khê – Gia Lai) – Quê hương đầu tiên của dòng họ Hồ ở đàng trong và là căn cứ địa đầu tiên của phong trào Tây Sơn

Ấp Tây Sơn là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Bình Định, Việt Nam. Đây là một vùng địa lý quan trọng ở khu vực Duyên hải Nam Trung bộ, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng ven biển miền trung có cảng Quy Nhơn và QL19 với khu vực Tây Nguyên rộng lớn, nhiều tiềm năng. Là một huyện phát triển năng động và là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội phía Tây tỉnh Bình Định. Tây Sơn (Bình Khê) ngày xưa là nơi phát tích cuộc khởi nghĩa nông dân của 3 anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) đã góp phần trong công cuộc thống nhất đất nước sau gần 200 năm chia cắt dưới thời Trịnh – Nguyễn, cũng như chống lại quân xâm lược Xiêm La ở phía Nam và quân Mãn Thanh ở phương Bắc.

Tư liệu: Trang Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở

Tranh Ấp Tây Sơn
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Di tích Điện thờ Tây Sơn Tam kiệt

Di tích Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt thuộc thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Khu di tích có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa, khoa học, gắn liền với tên tuổi của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, triều đại Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII, tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung.

Điện thờ Tây Sơn Tam kiệt được xây dựng lại năm 1998, trên nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc thờ ba anh em Tây Sơn tam kiệt.

Tư liệu: Di tích lịch khu Điện thờ Tây Sơn tam kiệt – Trang web Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cục di sản văn hóa (15/05/2024)

Tranh Di tích Điện thờ Tây Sơn Tam kiệt
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Di tích Gò Lăng

Gò Lăng (thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) – Quê ngoại của 3 anh em Tây Sơn tam kiệt

Di tích Gò lăng thuộc địa phận thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, cách Bảo tàng Quang Trung 2km, theo hướng Tây – Bắc. Nơi đây, với dấu tích còn lại là khu vườn và nền nhà cũ, quê hương bà Nguyễn Thị Đồng là mẹ của Tây Sơn Tam kiệt Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ – những thủ lĩnh kiệt xuất của phong trào nông dân Tây Sơn vào thế kỷ XVIII. Di tích được xếp hạng cấp Quốc gia 16/ 11/ 1988.

Tư liệu: Bình Định – Di tích Gò Lăng, Quê mẹ của các thủ lĩnh Tây Sơn (Báo xây dựng ngày 12/2/2024)

Tranh Di tích Gò Lăng
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Sơ đồ Gia phả dòng họ Tây Sơn

Ông Hồ Phi Phúc sinh được 3 người con đó là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.

Nhà Tây Sơn vốn là dòng họ Hồ, họ định cư ở NGHỆ AN. Ông tổ 4 đời của Quang Trung – Nguyễn Huệ là cụ Hồ Sĩ Anh ở làng Thái lão, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An bị Chúa Nguyễn bắt đưa vào Đàng trong để khai phá vùng Tây Sơn Thượng Đạo. Hậu duệ của cụ Hồ Sĩ Anh ở Bình Định là ông Hồ Phi Phúc có chí, khôn ngoan, lanh lợi vừa làm ruộng vừa buôn bán trầu cau đã kết duyên với bà Nguyễn Thị Đồng là con gái duy nhất của một phú ông ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Để cho con trai được thừa hưởng tài sản và hương khói bên ngoại ông bà Hồ Phi Phúc đã đổi tên họ của ba người con sang họ mẹ, họ Nguyễn; Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.

Tư liệu: Bảo tàng Tây Sơn – Bình Định

Tranh Sơ đồ Gia phả dòng họ Tây Sơn
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Bãi tập Voi

Bãi tập voi, xã Tây Nguyên, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định – Nơi nữ tướng Bùi Thị Xuân dùng để luyện tập voi chiến
Tranh Bãi tập Voi
Hiện vật tranh treo tường

Tranh An Khê Trường

Tranh An Khê Trường: Là một trong những căn cứ đầu tiên của nghĩa quân Tây Sơn (chất liệu: Tranh giấy)
Tranh An Khê Trường
Hiện vật tranh treo tường

Sơ đồ Nguyên nhân xâm lược của nhà Thanh

Cuối thế kỷ XVIII nhà Thanh đã mở rộng xâm lược các miền ngoại Mông, Tân Cương, Thanh Hải, Tây Tạng. Sau khi bình định xong phương Bắc chúng lăm le xâm lược nước ta. Khi Lê Chiêu Thống sang cầu viện nhà Thanh nắm lấy cơ hội phát động chiến tranh xâm lược nước ta.

Quân Thanh chia làm 04 đạo tiến đánh nước ta:

  • Đạo quân thứ 1: Do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy qua Lạng Sơn tiến xuống Thăng Long.
  • Đạo quân thứ 2: Do Sầm Nghi Đống chỉ huy qua Cao Bằng tiến xuống
  • Đạo quân thứ 3: Do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy qua Tuyên Quang tiến xuống
  • Đạo quân thứ 4 theo đường Quảng Ninh tiến vào

Tư liệu: Sách Lịch sử Việt Nam Tâp 01 –  p 318 NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1971

Sơ đồ Nguyên nhân xâm lược của nhà Thanh
Hiện vật tranh treo tường

Chủ trương rút lui của Ngô Thì Nhậm

Khi quân Thanh xâm lược Ngô Thì Nhậm đã có kế sách hay là rút Thủy quân về Biện Sơn, rút lục quân về phòng thủ phòng tuyến Tam Điệp để bảo toàn lực lượng, ông chủ trương “Cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay nghĩ cùng chỉ còn một cách này truyền cho Thủy quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, và thẳng cửa biển đến vùng Biện Sơn mà đóng. Quân mộ thì sửa sang khí giới gióng trống lên đường lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen…. Tướng giỏi đời xưa lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra trước lại. Nay ta hãy bảo tồn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên, cho chúng ngủ trọ một đêm rồi đuổi đi”

Trích Hoàng Lê Nhất Thống Chí – p342

Chủ trương rút lui của Ngô Thì Nhậm
Hiện vật tranh treo tường

Sơ đồ trận chiến Rạch Gầm – Xoài Mút

Sơ đồ trận chiến Rạch Gầm – Xoài Mút (chất liệu dán đề can)

Kháng chiến chống quân xâm lược Xiêm (1784 – 1785) – Trận Rạch Gầm – Xoài Mút

Vào năm 1784, hơn 5 vạn quân Xiêm đã theo 2 đường thủy và bộ đánh chiếm vào nước ta và đến cuối năm 1784 đã đánh chiếm được một vài vùng ở phía Tây Gia Định.

Năm 1785, Nguyễn Huệ đã đưa quân vào Mỹ Tho để tiến đánh quân Xiêm. Ông  đã lợi dụng nước thủy triều lên xuống vô cùng nguy hiểm ở khúc sông Rạch Gầm – Xoài Mút  làm trận địa quyết chiến với quân địch.

Đoạn sông này dài khoảng sáu kilomet rộng chừng khoảng 1 kilomet. Giữa sông có cù lao Thới Sơn, hai bên bờ sông cây cỏ rậm rạp, phía Bắc là Đồng Tháp Mười rộng mênh mông. Nguyễn Huệ quyết định bố trí một trận địa mai phục lớn ở đây:

  • Thủy binh giấu quân sâu trong các nhánh sông Rạch Gầm – Xoài Mút và sau các ngách cù lao.
  • Bộ binh mai phục trên bờ và trên các cù lao giữa sông.

Đêm ngày 19 và rạng sáng ngày 20 tháng giêng năm 1785 (năm Giáp Thìn), 5 vạn quân xiêm, đã tiến vào trận địa quyết chiến cùng với nghĩa quân của Tây Sơn. Khi quân địch đã bị tiến vào bên phía trong của trận địa mai phục thì pháo ở trên thuyền được bố trí ở các cù lao bắn ra vô cùng ác liêt, sau đó các quân phục kích ở 2 bên phía sông đã tiến ra chặn đầu khóa đuôi, và đánh tạt sườn làm cho toàn bộ chiến thuyền của quân Xiêm đã bị đánh chìm ở đây.

Trận chiến Rạch Gầm – Xoài Mút được ví như là một trận thủy chiến vô cùng vang dội nó khẳng định sức mạnh to lớn của nghĩa quân và thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ.

Tư liệu: Sách Lịch sử Việt Nam Tâp 01 – NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1971

Sơ đồ trận chiến Rạch Gầm – Xoài Mút
Hiện vật tranh treo tường

Lời chiếu của Vua Càn Long gửi Tôn Sĩ Nghị

Cuối năm Mậu Thân 1788, lợi dụng hành động rước voi về dày mả tổ của Vua tôi Lê Chiêu Thống, Vua Càn Long ra một bản chỉ dụ trực tiếp đề ra phương hướng chiến lược cho Tôn Sĩ Nghị nhằm triệt để lợi dụng những mâu thuẫn trong nước ta để thực hiện dã tâm xâm lược “ Nay Lê Duy Kỳ dẫu phải bôn vong, nhưng toàn cõi chưa đến nỗi mất hết. Mà thần dân trong nước hãy còn yêu mến họ Lê thì cũng có cớ hưng dụ được. Vậy cho Khanh đem quân đóng ở biên thùy, xa làm thanh thế cứu viện. Rồi bảo Duy Kỳ phải triệu tập nghĩa binh, thu phục lấy quốc thành, chứ ta không cần động binh lính giúp cho nhọc công, tốn sức, tốn của, khi họ lấy được kinh thành rồi, Khanh sẽ đem quân hộ tống Duy Kỳ về nước. Nếu tự tôn không làm nổi việc và Tây Sơn vẫn cứ rông rỡ, thì bấy giờ Khanh sẽ đem binh rồi thừa cơ chiếm lấy nước Nam đem binh hỏi tội”

Tư liệu: Lời chiếu của Vua Càn Long dặn Tôn Sĩ Nghị – Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Lời chiếu của Vua Càn Long gửi Tôn Sĩ Nghị
Hiện vật tranh treo tường

Trích Chiếu lên ngôi của Vua Quang Trung

Trích Chiếu lên ngôi của Vua Quang Trung (chất liệu: Dán chữ nổi)

Ngày 25 /11/ năm Mậu Thân tức ngày 22/12/1788 Nguyễn Huệ trịnh trọng làm lễ đăng quan chính thức lên ngôi Hoàng đế tại Phú Xuân đặt niên hiệu là Quang Trung rồi lập tức hạ lệnh xuất quân.

Đoạn trích Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung được viết vào năm 1788: “Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân vì vậy trẫm phải tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi, đi xe cỏ, để mở mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh, rong ruổi việc nhung mã… cốt ý quét sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa”.

Tư liệu: Sách Lịch sử Việt Nam Tâp 01 – NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1971- p 350

Trích Chiếu lên ngôi của Vua Quang Trung
Hiện vật tranh treo tường

Bải hiểu dụ tướng sĩ của Vua Quang Trung

Chất liệu tranh Sơn mài

Bài hiểu dụ tướng sĩ tại Thanh Hóa của vua Quang Trung nói lên quyết tâm sắt đá, đánh tan quân ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc:

Đánh cho để dài tóc.
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Tư liệu: Sách Lịch sử Việt Nam Tâp 01 – NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1971- p 353

Bải hiểu dụ tướng sĩ của Vua Quang Trung
Hiện vật tranh treo tường

Sơ đồ Đường hành quân thần tốc

Đường hành quân thần tốc của quân Tây Sơn từ Nam ra Bắc

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của số lượng quân đội sau chiến tranh và sự khắc phục tình trạng so sánh quá chênh lệch về quân số giữa ta và địch do đó trên đường hành quân Quang Trung đã cố gắng bổ sung quân số (chiêu mộ quân sỹ), với truyền thống yêu nước nồng nàn hàng vạn thanh niên trai tráng đã tự nguyện gia nhập hàng ngũ quân Tây Sơn hăng hái lên đường giệt giặc cứu nước. Chỉ hơn 10 ngày dừng quân lại ở Nghệ An Nguyễn Huệ đã tuyển thêm được hàng vạn tân binh đưa số quân Tây Sơn lên 10 vạn quân và vài trăm voi chiến. Phong trào Tây sơn vốn bắt nguồn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân lúc bấy giờ đã phát triển lên thành một phong trào dân tộc. Ngày 15/1/1789 Đại quân Tây Sơn đã ra đến Tam Điệp, Quang Trung chia quân làm 5 đạo với 3 hướng tấn công ra Thăng Long, đích thân Hoàng Đế chỉ huy đạo quân trung tâm hành quân thần tốc tiến ra kinh thành Thăng Long.

Tư liệu: Sách Lịch sử Việt Nam Tâp 01 – NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1971- p 530

Sơ đồ Đường hành quân thần tốc
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Vua Quang Trung chỉ huy trận Ngọc Hồi

Tranh Vua Quang Trung chỉ huy trận Ngọc Hồi (họa sĩ Anh Thơ vẽ năm 1984 – chất liệu tranh Sơn dầu)
Tranh Vua Quang Trung chỉ huy trận Ngọc Hồi
Hiện vật tranh treo tường

Sơ đồ Khu chiến trường Đống Đa

Sơ đồ Khu chiến trường Đống Đa (theo bản đồ Hà Nội 1873)
Sơ đồ Khu chiến trường Đống Đa
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Đô đốc Đặng Tiến Đông đánh trận Đống Đa

Đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy đánh trận Đống Đa
Tranh Đô đốc Đặng Tiến Đông đánh trận Đống Đa
Hiện vật tranh treo tường

Sơ đồ trận chiến Ngọc Hồi – Đống Đa

Sơ đồ trận chiến Ngọc Hồi – Đống Đa
Sơ đồ trận chiến Ngọc Hồi – Đống Đa
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Tôn Sĩ Nghị rút chạy

Tàn quân Thanh chạy qua cầu phao sông Hồng
Tranh Tôn Sĩ Nghị rút chạy
Hiện vật tranh treo tường

Lệnh chỉ sản xuất Nông nghiệp

Hình ảnh tranh minh họa: Lệnh chỉ truyền về việc đóng mở cống dẫn nước để bảo vệ sản xuất nông nghiệp (1790) – Chất liệu giấy Dó

Để khôi phục và phát triển nền kinh tế, Vua Quang Trung ban hành “Chiếu khuyến nông” nhằm phục hồi nền sản xuất nông nghiệp. Nhờ những biện pháp kiên quyết đó mà đến mùa thu năm 1791 mùa màng đã trở lại phong đăng và một nửa đất nước được thanh bình.

Hình ảnh Sưu tập Tiền Quang Trung Thông Bảo, Cảnh Thịnh Thông Bảo tìm thấy ở Di tích Gò kho (Phủ Cát – Bình Định)

Quang Trung ra lệnh bãi bỏ nhiều thứ thuế nặng nề trước đây, khuyến khích các hoạt động công thương nghiệp, mở mang quan hệ buôn bán với nước ngoài, một số cửa ải phía Bắc được mở lại, các chợ biên giới như: Kì Lừa, Hoa Sơn (Lạng Sơn), Mục Mã (Cao Bằng) được khôi phục. Một bằng chứng sát thực chứng minh cho sự phát triển kinh tế thời kì này là phát hiện của các nhà tiền cổ học: Triều đại Quang Trung chỉ tồn tại hơn 3 năm (1788- 1792) nhưng Quang Trung đã có ít nhất 17 lần đúc tiền với 21 kiểu loại khác nhau. (Tủ kính trưng bày sưu tập Tiền đồng Tây Sơn phát hiện tại Cát Minh-Phù Cát năm 1998).

Lệnh chỉ sản xuất Nông nghiệp
Hiện vật tranh treo tường

Chiếu chỉ dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm

Chiếu chỉ của vua Quang Trung về việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm (1790). Chất liệu giấy Dó

Năm 1790, mặc dù còn nhiều bận rộn nhưng ông đã cho mở ngay kì thi Hương (do Nguyễn Thiếp làm chánh chủ khảo) để lựa chọn nhân tài. Cũng trong năm, vua Quang Trung ban bố “Chiếu lập học” nhằm phục hồi và phát triển nền văn hóa giáo dục. Ông luôn coi trọng chữ Nôm và nền văn hóa Việt, khuyến khích các hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống.

Chiếu chỉ dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Vua Quang Trung tiến vào giải phóng thành Thăng Long

Bức ảnh về “Khúc khải hoàn ca” của nghĩa quân Tây Sơn cùng đội quân của mình khi tiến vào thành Thăng Long vào ngày mùng 5 tết Kỷ dậu năm 1789 trong sự hò reo và cổ vũ đầy hai bên đường của nhân dân chúng ta. (chất liệu tranh sơn dầu)
Tranh Vua Quang Trung tiến vào giải phóng thành Thăng Long
Hiện vật tranh treo tường

Thư của vua Quang Trung gửi La Sơn Phu Tử (chữ Hán)

Thư của Quang Trung Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhờ tìm đất đóng đô ở Nghệ An (ảnh chụp bút tích)
Thư của vua Quang Trung gửi La Sơn Phu Tử (chữ Hán)
Hiện vật tranh treo tường

Tranh Sơ đồ thành Phượng Hoàng Trung Đô

Trong những lần hành binh từ Phú Xuân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng nhận thấy Bắc Hà (phía Bắc của quốc gia Đại Việt, tính từ giới tuyến sông Gianh) là nơi khó trị sự, dễ sinh biến và từ Phú Xuân ra Thăng Long thì quá xa. Vì thế, ông đã nung nấu ý định lập một kinh đô mới gần Bắc Hà hơn. Nơi Nguyễn Huệ chọn là Nghệ An. Nghệ An là điểm giữa khoảng cách từ Phú Xuân tới Thăng Long, tiện cho việc đi lại. Một lý do nữa là Nghệ An là đất tổ của Nguyễn Huệ. Dòng họ Nguyễn ở Tây Sơn vốn gốc là họ Hồ ở đất Hưng Nguyên, Nghệ An. Việc đóng đô ở Nghệ An cũng dễ thu phục nhân tâm khi người dân xứ này đã phải khổ sở vì chiến tranh, chán ghét cả vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

Tranh Phượng Hoàng Trung Đô mà Quang Trung định xây dựng năm 1788 (sa bàn làm theo các tư liệu sử học năm 1998)

Sau nhiều lần lựa chọn đất xây dựng, cuối cùng kinh thành mới của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ – tức vua Quang Trung sau này, cũng được khởi công. Phượng Hoàng Trung Đô, hay còn gọi là Trung Kinh Phượng Hoàng thành, được xây dựng giữa núi Phượng Hoàng (tức núi Dũng Quyết) và núi Kỳ Lân (tức núi Mèo), thuộc xã Yên Trường, huyện Chân Lộc xưa (nay thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An). Chữ “Phượng Hoàng” là tên một loài chim quý trong truyền thuyết, cũng là tên núi Phượng Hoàng, còn “Trung Đô” nghĩa là kinh đô ở trung tâm đất nước.

Thành Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1788 – 1792, nương theo địa thế tự nhiên. Về mặt cấu trúc, tòa thành có hai vòng là thành ngoại và thành nội. Thành ngoại có hình thang, chu vi 2.820m, diện tích 22ha, tường thành cao 3 – 4m, phía ngoài có hào rộng 3m, sâu 3m. Tường thành được xây kết hợp với các vách núi làm lũy tự nhiên. Thành ngoại có 3 cửa thành là cửa Tiền (phía Nam), cửa Tả (phía Đông) và cửa Hữu (phía Tây). Thành nội được xây bằng gạch vồ và đá ong, chu vi gần 1.680m, cao 2m; cửa lớn mở ra hai hướng Đông – Tây. Trong thành nội có tòa lầu rộng, cao 3 tầng, trước có bậc tam cấp bằng đá ong, sau có dãy hành lang nối liền với điện Thái Hòa dùng để thiết triều.

Đáng tiếc, tháng 9-1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Thời điểm ấy Phượng Hoàng Trung Đô cơ bản đã hoàn thành nhưng nhà vua chưa kịp dời đô từ Phú Xuân ra Nghệ An. Vua kế vị Quang Trung là Cảnh Thịnh – Nguyễn Quang Toản sau đó không dời đô như lời căn dặn của vua cha Quang Trung mà vẫn đóng ở Phú Xuân. Thành Phượng Hoàng Trung Đô dần bị quên lãng và trở thành phế tích.

Phượng Hoàng Trung Đô tuy chưa chính thức là kinh đô và có số phận ngắn ngủi, không may mắn, song đó là tâm huyết của vua Quang Trung và có ý nghĩa lớn trong một khoảng lịch sử biến động của Đại Việt, thể hiện tầm nhìn và khát vọng của vua Quang Trung về một đất nước hòa bình, thống nhất, phồn vinh.

Tư liệu: Phượng Hoàng Trung Đô – Gạch nối quá khứ và hiện tại; Báo Hà Nội Mới (05/12/2019)

Tranh Sơ đồ thành Phượng Hoàng Trung Đô
Hiện vật tranh treo tường

Trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng tri ân của hậu thế đối với các vị anh hùng dân tộc và Hoàng đế Quang Trung (chất liệu chữ nổi)

Trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng tri ân của hậu thế đối với các vị anh hùng dân tộc và Hoàng đế Quang Trung: “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung vv… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trích Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng (tháng 2 năm 1951)

Trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hiện vật tranh treo tường

Ảnh Lễ hội Gò Đống Đa các năm

Đây là một số hình ảnh về Lễ hội Gò Đống Đa được tổ chức vào ngày mùng 5 Tết hàng năm nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị tinh thần văn hóa của dân tộc. tiếp nối truyền thống yêu nước, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc các thế hệ đã hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; khẳng định vị trí, tầm vóc vĩ đại, giá trị lịch sử to lớn của chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Lần đầu tiên tổ chức Lễ hội Đống Đa, Bính Tuất -1946
Lễ hội Đống Đa năm 1959
Lễ hội Đống Đa năm 1960
Lễ hội Đống Đa năm 1966
Lễ hội Đống Đa năm 1976
Lễ hội Đống Đa năm 1983
Lễ hội Đống Đa năm 1985
Lễ hội Đống Đa năm 1988
Lễ hội Đống Đa năm 1989
Lễ hội Đống Đa năm 1996
Lễ hội Đống Đa năm 1997
Lễ hội Đống Đa năm 1998
Lễ hội Đống Đa năm 2002
Ảnh Lễ hội Gò Đống Đa các năm
Hiện vật tủ trưng bày

Sa bàn trận chiến Ngọc Hồi – Đống Đa

Cuối năm Mậu Thân (1788), lợi dụng hành động rước voi về giày mồ của thế lực phong kiến phản động, 29 vạn quân Thanh do Tồng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tràn sang xâm chiếm nước ta. Lúc bấy giờ quân Tây Sơn đồn trú ở Bắc Hà do đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy. Trước tình thế bất lợi về nhiều mặt, quân Tây Sơn theo chủ trương đúng đắn của Ngô Thì Nhậm tạm thời rút lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn. Tối ngày 19 tháng 11 năm Mậu Thân (ngày 16-12-1788), quân Thanh bắt đầu vượt sông Nhị tiến vào chiếm đóng kinh thành Thăng Long.

Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan, khinh địch và ra lệnh tạm thời đóng quân và nghỉ ngơi chuẩn bị ăn Tết Nguyên đán, đóng đại bản doanh tại cung Tây Long (Cung Tây Long ở trên bến Tây Long phía ngoài cửa Ô Tây Long (hay Tây Luông) bên bờ sông Nhị – phía Đông – Nam thành Thăng Long (khoảng phía trên Viện Bảo tàng lịch sử hiện nay) và bố trí các đạo quân thành thế phòng ngự tạm thời, vừa để bảo vệ đại bản doanh,vừa để phòng sự tiến công bất ngờ của đối phương. Đạo quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, đóng doanh trại ở bãi cát hai bên bờ sông Nhị (khoảng bến Bồ Đề), ở giữa có cầu phao qua lại. Đại quân Điền Châu, Triều Châu do Tri phủ Điền Châu là sầm Nghi Đống chỉ huy, đóng ở Đống Đa (thuộc trại Khương Thượng). Đạo quân Vân Quý do Đề đốc ô Đại Kinh chi huy, đóng ở Sơn Tây. Đạo quân Khâm Châu theo đường ven biển sang đóng ở Hải Dương.

Trong lúc Tôn Sĩ Nghị đang say sưa, tự mãn thì Quang Trung đã hoàn thành công việc chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược với sự nghiên cứu tường tận, phân tích và đánh giá đúng đắn toàn bộ tình hình và so sánh lực lượng giữa ta và địch để đề ra kế hoạch tác chiến cụ thể, nhằm nhanh chóng tiêu diệt quân Thanh, giải phóng kinh thành Thăng Long.

Nhận được tin cấp báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân thần tốc tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống,

Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi Hoàng đế và tức tốc cho lập đàn Nam Giao ở núi Bân (canh núi Ngự Bình) làm lễ cáo tế trời đất, tuyên bố lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và tuyên Chiếu:

“Nước Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến ngày nay, thánh minh dấy lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được. Trước đây nhà Lê mất chính qưyền, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm năm nay, kỷ cương rối loạn, vua Lê chi là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng mối của trời đất một phen rơi xuống không nâng lên được, chưa có lúc nào hư hỏng quá như lúc này vậy. Vả lại mấy năm gần đây, Nam Bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than.

Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê, chỉ trông mong vào Trẫm, về phần đại huynh Nguyễn Nhạc cỏ ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn, tự nhún xưng là Tây Vương, mấy nghìn dặm đất về Phương Nam thuộc hết về Trẫm.

Trẫm tự nghĩ tài đức không bằng người xưa, mà đất đai thì rộng, nhân dân thì nhiều, ngẫm nghĩ cách thống trị, lo ngay ngáy như dây cưomg mục chỉ huy sáu ngựa.

Nay xem khí thần rất hệ trọng, ngôi trời thật khó khăn, Trẫm chỉ lo không kham nổi, nhưng ức triệu người trong bốn bể đều xúm quanh cả vào thân Trẫm, đó là ý trời đã định, không phải do người làm ra. Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường.

Trẫm chọn ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi Thiên tử; đặt niên hiệu là Quang Trung năm đầu, truyền bảo cho trăm họ muôn dân phải tuân thủ theo giáo ỉệnh của nhà vua. Nhân nghĩa, trung chính là đạo lớn của người, Trẫm nay củng dân đổi mới, vâng theo mưu mô sáng suốt của vua thánh đời trước, lấy giáo hóa trị thiên hạ”

Tại trấn doanh Nghệ An, Quang Trung tổ chức một cuộc duyệt binh lớn và đọc bài hịch biểu thị cao độ ý chí độc lập tự chủ và thần tốc tiến quân ra Bắc Hà quyết tâm tiêu diệt địch. Bài Hịch viết:

“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng.
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”

Tuy đã chuyển sang thế phòng ngự tạm thời trong những ngày Tết nhưng Tôn Sĩ Nghị có ý đồ tiếp tục tiến công. Bốn đạo quân Thanh với tổ chức, phiên chế không thay đồi, đóng ở bốn vị trí: Tây Long, Đống Đa, Hải Dương, Sơn Tây. Mãi đến khi được tin Quang Trung đang tuyển quân ờ Nghệ An, Thanh Hóa, chuẩn bị tiến công ra Bắc, Tôn Sĩ Nghị mới lo tăng cường lực lượng phòng thủ xung quanh Thăng Long, chủ yếu là mặt Nam và ra lệnh đề phòng trước, cho quân đi đóng giữ ở tất cả các nơi hiểm yếu bốn ngả đường.

Quang Trung quyết định chọn Thăng Long làm mục tiêu tiến công chủ yếu và chia toàn quân ra làm 5 đạo với sự bố trí lực lượng và phân chia nhiệm vụ cụ thể như sau:

Đạo thứ nhất (quân chủ lực): do Quang Trung trực tiếp chỉ huy gồm bộ binh, tượng binh, kỵ binh với nhiều voi chiến và hỏa hổ, đại bác đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu. Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân là những tướng Tây Sơn đã quen thuộc chiến trường Bắc Hà, chỉ huy quân tiên phong. Chiêu Viễn tướng quân là người đã từng chiêu tập hàng vạn tân binh ở vùng Thanh Nghệ, đốc xuất hậu quân làm Đốc chiến. Nhiệm vụ của đạo quân này là tiến công thẳng vào hệ thống phòng thủ của địch ở phía Nam Thăng Long, mặt trận chính của quân Thanh.

Đạo quân thứ hai: cố giáo sư Phan Huy Lê trong “Những trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc” thì đạo quân thứ hai do Đô đốc Đặng Tiến Đông (theo PGS Sử học Lê Văn Lan thì cánh quân này do Đô đốc Long chi huy; Đô đốc Đặng Tiến Đông là một bộ tướng của Đô Đốc Long) chỉ huy, đảm nhiệm hướng tiến công thứ yếu. Đạo quân này gồm kỵ binh và tượng binh, lực lượng không nhiều nhưng khá mạnh và cơ động, từ Tam Điệp tiến ra Thiên Quan (Nho Quan, Ninh Bình) xuyên qua. Chương Mỹ tiến thẳng đến Nhân Mục với nhiệm vụ bất ngờ bao vây tiêu diệt đạo quân sầm Nghi Đống ở Đống Đa, rồi qua cửa Tây – Nam (ô Chợ Dừa) thọc sâu vào thành Thăng Long, làm rối loạn khu Trung tâm phòng thủ của địch, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.

Đạo quân thứ ba: Do Đại Đô đốc Bảo chỉ huy. Đây là lực lượng cơ động gồm kỵ binh và tượng binh, đặc biệt có đội voi chiến mạnh đi theo con đường qua Sơn Minh (ứng Hòa) tiến ra Đại Áng (Thanh Trì) ở phía Tây – Nam đồn Ngọc Hồi, có nhiệm vụ “tiếp ứng cho cánh hữu”

Đạo quân thứ tư: Do Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy vượt biển vào sông Lục Đầu, tiến công tiêu diệt lực lượng quân địch đóng ở Hải Dương và sẵn sàng “tiếp ứng dưới mặt Đông”

Đạo quân thứ năm: Do Đại Đô đốc Lộc chỉ huy cũng là đạo quân thủy và cũng vượt biển tiến vào sông Lục Đầu. Đạo quân này là một mũi vu hồi, bí mật tiến vào sau lưng địch, chặn đường rút chạy của quân Thanh từ Thăng Long về Quàng Tây. Từ Lục Đầu, đạo quân này có nhiệm vụ nhanh chóng tiến lên vùng Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế chắn ngang và bịt kín đường tháo chạy của địch.

Một ngày cuối tháng chạp năm Mậu Thân (1788), Quang Trung mở tiệc khao quân coi như ăn Tết Nguyên đán trước và tuyên bố với các tướng soái: “Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân ngày mồng 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời Ta nói xem có đúng thế không?”. Đêm 30 Tết, đạo quân chủ lực của Quang Trung vượt sông Gián, mở màn cuộc đại phá quân Thanh. Tiền quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của địch ở Gián Khẩu.

Nừa đêm ngày mồng 3 Tết Kỷ Dậu (ngày 28-1-1789), quân Tây Sơn bí mật bao vây đồn Hà Hồi (xã Hồng Phong, huyện Thường Tín). Đây là một đồn quan trọng của quân Thanh cách Thăng Long khoảng 20 km, đóng trên một khu đất cao ở phía Nam của ngôi làng, sát bên đường thiên lý. Khoảng nửa đêm, quân Tây Sơn lặng lẽ vây chặt đồn trại của địch rồi bắc loa gọi hàng. Sau đó đồn Hà Hồi bị hạ. Sáng ngày 05 Tết Kỷ Dậu (ngày 30-1-1789), quân Tây Sơn bất ngờ tiến công mặt Nam đồn Ngọc Hồi. Quang Trung buộc khăn vàng vào cổ và cưỡi voi ra trận trực tiếp chi huy và đốc chiến.

Quân Tây Sơn tràn qua đồn Binh Vọng, một đồn tiền tiêu của địch, xông thẳng đến đồn Ngọc Hồi với đội tượng binh hơn 100 voi chiến. Quân địch hoảng sợ, tất cả rút lui vào trong lũy cố thủ. Quang Trung ra lệnh cho đội voi chiến lập tức chia ra làm hai cánh đánh vòng về hai phía tả và hĩru để mở đường cho đội xung kích gồm cảm từ quân 600 người, chia làm 20 toán dàn ngang thành thế trận chữ nhất, phía trước là 20 tấm mộc kết liền với nhau chống đỡ đại bác và cung tên của địch từ trong chiến lũy bắn ra, che chở cho đội quân xung kích và kết thúc với chiến thắng vang dội.

Đồn Ngọc Hồi, cứ điểm phòng ngự kiên cố nhất của quân Thanh bị phá vỡ, mở toang cửa ngõ tiến vào giải phóng Kinh thành Thăng Long, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long.

Sáng ngày 05 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), lúc trời còn tối, đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi thì trên hướng tiến công phối hợp, đạo quân của Đô đốc Đặng Tiến Đông cũng đồng thời bất ngờ đánh vào đồn Đống Đa, giữ vị trí quan trọng trong hệ thống phòng thủ Thăng Long của Tôn Sĩ Nghị.

Sở dĩ quân Thanh lập đồn tại ở Đống Đa là để khống chế con đường cái (đường thượng đạo) từ Tam Điệp ra phía Tây – Nam Thăng Long, đề phòng cuộc tiến công của quân Tây Sơn theo hướng này và bảo vệ trực tiếp cửa ô Thịnh Quang, một cửa ngõ phía Tây – Nam Kinh thành Thăng Long.

Tại đồn Đống Đa, quân Thanh không xây dựng công sự, đắp chiến lũy mà chỉ dựa vào địa hình và làng mạc để bố trí doanh trại. Trong các doanh trại ấy có trại Khương Thượng. Vì vậy, quân Thanh chiếm cánh đồng cao ráo ở phía Bắc trại Khương Thượng để dựng đồn trại. Sở chỉ huy của Sầm Nghi Đống đặt trên núi Cây Cờ (tức Loa Sơn). Đó là một điểm cao có thể bao quát cả khu đồn trại và kiểm soát con đường vào Thăng Long.

Doanh trại quân lính xây dựng chung quanh sở chỉ huy bao gồm cả hai bên đường cái. Để canh phòng từ xa và bảo vệ đồn Đống Đa, Sầm Nghi Đống còn lập một số đồn binh nhỏ ở chung quanh. Đồn Yên Quyết (phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy) bên bờ sông Tô Lịch có vị trí như một đồn tiền tiêu án ngữ phía trước đồn Đống Đa. Phía sau có đồn Nam Đồng (Đống Đa, Hà Nội) ờ khoảng giữa đồn Đống Đa và cửa ô thành Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghĩ rằng quân Tây Sơn dù có tiến công ra Thăng Long cũng không thể đi theo con đường núi khó khăn, hiểm trở nên chỉ tăng cường lực lượng cho tuyến phòng thủ phía Nam và  sẵn sàng điều động cả đạo quân chủ lực ở đại bản doanh chi viện cho tuyến xung yếu đó.

Đạo quân Tây Sơn làm nhiệm vụ tập kích tiêu diệt đồn Đống Đa do Đô đôc Đặng Tiến Đông chỉ huy. Hơn nữa, đạo quân này phải hành quân bí mật đi theo con đường núi hiểm trở, vừa phải mờ đường vừa phải bất ngờ đánh úp, tiêu diệt đồn Đống Đa thật nhanh, gọn. Tối mồng 04 tháng Giêng, đạo quân này tiến về phía Nhân Mục (phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân). Sáng mồng 5 (trước giờ tiến công), lúc trời còn tối mù mịt, quân Tây Sơn nhanh chóng vượt qua sông Tô Lịch, bí mật áp sát đồn Đống Đa, hình thành sẵn thế trận bao vây tiến công.

Đạo quân của Đô đốc Đặng Tiến Đông gồm kỵ binh và tượng binh có sức cơ động nhanh và đột phá mạnh. Quân đội cũng được trang bị nhiều hỏa hổ và đại bác đặt trên mình voi chiến. Cuộc tiến công bắt đầu vào khoảng cuối canh tư (khoảng 3 giờ sáng). Bằng khí thế áp đảo quân thù, quân Tây Sơn với đội hình đã bày sẵn, xông thẳng vào đồn trại của địch. Quân ta đốt phá các doanh trại phía ngoài rồi nhanh chóng đánh thọc vào sở chỉ huy của địch, Sầm Nghi Đống cố đốc thúc quân lính chống cự nhưng không đương nổi sức tiến công mãnh liệt của quân Tây Sơn. Chỉ trong chốc lát, số quân Thanh bị chết và bị thương đã lên đến 5.000 người, Sầm Nghi Đống phải bỏ các doanh trại bên ngoài, rút về bảo vệ sở chỉ huy trên Loa Sơn để chờ quân cứu viện. Cùng lúc đó, xung quanh đồn trại của địch đột nhiên xuất hiện một hàng rào hỏa long trận (trận rồng lửa) dày đặc của nhân dân các địa phương góp sức cùng với đội quân Tây Sơn diệt giặc. Quân Tây Sơn tiến công thành Thăng Long, nhân dân chín xã ở ngoại thành sôi nổi dùng rơm rạ bện thành hình rồng, tẩm dầu đốt lửa, thành trận rồng lửa.

Quân địch vừa choáng váng vì đòn tiến công bất ngờ của quân Tây Sơn vừa khiếp đảm trước lưới lửa bao vây trùng điệp của nhân dân. Trong đêm tối, chúng chỉ còn trông thấy bốn bề lửa cháy rực trời tiếng reo hò dậy đất. Đồn trại của địch tan vỡ nhanh chóng, quân địch đang lúc đêm tối, tự xéo lên nhau mà chạy. Các mũi tiến công của quân Tây Sơn lao vào chém giết như vào chỗ không người. Từ trên sở chỉ huy, sầm Nghi Đống thấy rõ đã lâm vào cảnh thế cùng lực kiệt chống đỡ không nổi, quân cứu viện không có, phá vây không được. Sầm Nghi Đống tuyệt vọng thắt cổ chết ngay tại sở chỉ huy. Đội thân binh trung thanh cùa hắn cũng tự sát theo chủ tướng đến vài trăm tên. Đồn Đống Đa bị tiêu diệt vào lúc trời chưa sáng.

Theo kế hoạch của Quang Trung, trong khi đạo quân chủ lực công phá đồn Ngọc Hồi thì đạo quân của Đô đốc Đông bất ngờ tập kích tiêu diệt đồn Đống Đa, rồi nhanh chóng thọc sâu vào thành Thăng Long, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị. Do đó, mờ sáng ngày mồng 05, lúc đồn Đống Đa sắp bị tiêu diệt, Đô đốc Đặng Tiến Đông đã hết sức khẩn trương mau lẹ đem đội kỵ binh tiên phong của mình đánh thọc vào Thăng Long. Như một mũi dao nhọn, đội kỵ binh Tây Sơn lao thẳng về phía cung Tây Long.

Những tin tức từ mặt trận phía Nam và phía Tây – Nam đồng thời đến với Tôn Sĩ Nghị. Cả một đạo quân chủ lực còn nguyên vẹn trong tay, nhưng viên chủ soái của quân Thanh hoảng hốt, không còn biết xoay sở đối phó thế nào. Như trong bản tấu gửi về triều đình nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị cảm thấy quân Tây Sơn nhiều quá, chúng bị vây kín bốn mặt, sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, ngưòi không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy. Tiết Trung phải dắt cương ngựa cho Tôn Sĩ Nghị chạy trốn và phó tướng Khánh Thành đi theo hộ tống. Thấy Chủ tướng bỏ chạy, quân sĩ các doanh nghe tin đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Thấy tình hình quá hỗn loạn, Tông binh Lý Hóa Long chạy đến giữa cầu phao cũng bị quân lính đẩy ngã nhào xuống sông.

Qua khỏi cầu phao sang bờ Bắc sông Nhi, Tôn Sĩ Nghị lại sợ quân Tây Sơn lợi dụng cầu phao đuổi theo. Chỉ lo bảo toàn tính mạng của bản thân, viên bại tướng không ngần ngại ra lệnh cắt đứt cầu phao để chẹn phía sau Tàn quân Thanh bị quân Tây Sơn truy kích phía sau và đến Phượng Nhãn lại bất ngờ bị đạo quân của Đô đốc Lộc chặn đánh. Tôn Sĩ Nghị và bọn tàn quân không dám chạy theo đường cái. Chúng phải luồn rừng, lội suối, leo núi, đường đi quanh co, rẽ ngang rẽ dọc… luôn luôn lạc lối, không tìm được nẻo đi, đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi. Tôn Sĩ Nghi phải vứt bỏ tất cả mọi thứ mang theo kể cả sắc thư, kỳ bài, quân ấn Chủ soái do vua Thanh ban cho, để lo chạy thoát thân.

Đạo quân Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị đánh tan. Toàn bộ quân xâm lược Mãn Thanh khoảng 29 vạn quân cùng với vài vạn quân của bù nhìn Lê Chiêu Thống đã tan tành, bị tiêu diệt đại bộ phận và bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Trong bốn đạo quân Thanh thì ba đạo, trong đó có đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị bị tiêu diệt gần hết và một đạo không bị đánh mà cũng tan tác.

Hàng loạt tướng soái cao cấp của địch bị bỏ mạng: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Phó tướng Hình Đôn Hạnh; các Tồng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lý Hóa Long; Tri phủ Sầm Nghi Đống; các tham tướng Dương Hưng Long, Tương Tuyên, Anh Lâm. Đó là chưa kể một số võ quan khác cũng bị chết trận như: Du kích Minh Trụ, Trương Thuần, Vương Đàm, Trương Hội Nguyên, Lưu Việt; Đô ty Đặng Vĩnh Lượng, thủ bị Lê Trí Minh, tri huyện Vi Thiên Quỳ, kinh lịch Trương Thành, số quân Thanh đầu hàng và bị bắt làm tù binh có đến vài vạn người. Vua Càn Long, Tôn Sĩ Nghị cho đến các sử thần nhà Thanh đều cố che đậy thất bại thảm hại của quân Thanh và tìm cách biện bạch trách nhiệm của vua quan nhà Thanh. Tôn Sĩ Nghị thì đổ tội cho Lê Chiêu Thống mới nghe tin Nguyễn Huệ thân hành đem binh đến đánh đã mất cà hồn vía và bỏ chạy trước làm cho binh sĩ hoang mang rối loạn.

Sáng mồng 05 Tết mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), đang ở trong cung điện được tin Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh bại trận rút chạy, Lê Chiêu Thống vội vàng chạy theo. Nhưng ra đến bờ sông thì cầu phao đã bị cắt, bèn hoảng sợ theo bờ sông chạy lên Nghi Tàm cướp được chiếc thuyền đánh cá chèo qua sông, tìm đường chạy lên ải Nam Quan mới gặp Tôn Sĩ Nghị để bắt đầu cuộc sống lưu vong nơi đất khách quê người.

Có thể nói, chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa được vua Quang Trung – Nguyên Huệ thực hiện trên hướng tiến công chủ yếu, đánh ngay vào đạo quân mạnh nhất của địch. Trong khi 4 đạo quân của Đô đốc Bảo, Đô đốc Đông, Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc vòng theo bai hướng Đông – Tây cạnh sườn và sau lưng đội hình chiến lược của quân Thanh, bất ngờ tiến công vào nơi sơ hở và hiểm yếu của địch thì đạo quân do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào đồn Ngọc Hồi, khu vực phòng thủ vững chắc của địch, thu hút sự chú ý của Tôn Sĩ Nghị, tạo điều kiện cho đạo quân của Đô đốc Đông nhanh chóng thọc sâu vào đại bản doanh của địch ở Đống Đa và thành Thăng Long đánh đòn quyết định. Quân Tây Sơn tuy kém đối phương về số lượng song lại hơn về nhiều mặt: Tinh thần – quyết tâm lẫn chiến thuật – Kỹ thuật, đặc biệt là có trình độ tác chiến công thành cao và nghệ thuật chỉ huy tuyệt diệu. Với hướng tấn công chính xác, Nguyễn Huệ đã tận dụng được mọi yếu tố thuận lợi của minh, khoét sâu những chỗ yếu, chỗ sơ hở và hạn chế được những chỗ mạnh của địch để tạo nên thế trận chiến lược có sức tiến công mãnh liệt, kết hợp chặt chẽ giữa đột phá chính diện với bao vây vu hồi lớn một thế trận áp đảo đối phương rõ rệt, khiến chúng không sao chịu nổi và đi đến nhanh chóng tan vỡ. Từ đó, chúng ta có thể thấy thêm một điều: Hướng quyết chiến đúng không những là nơi ta có điều kiện tạo thế mạnh áp đảo đối phương mà còn là nơi dễ gây ra nao núng và rối loạn.

Cũng trong chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa, trên hướng chính đánh vào Thăng Long, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã tổ chức mũi đột phá vào hướng Hà Hồi – Ngọc Hồi và mũi thọc sâu vào Đống Đa. Đồng thời ông tổ chức hai mũi bao vây vu hồi rộng: Mũi gần ở Hải Dương nhằm uy hiếp và chặn địch ở phía Đông, mũi xa ở Lạng Giang – Phượng Nhãn nhằm chặn đường rút chạy của địch về phía Bắc. Riêng hướng đột phá vào Ngọc Hồi lại có mũi bao vây vu hồi hẹp ờ Đầm Mực để vét gọn đám tàn quân từ Ngọc Hồi chạy về Thăng Long. Đặc biệt, hành động của quân Tây Sơn hết sức nhanh chóng như các tác giả cuốn “Hoàng Lê nhất thống chí” đã miêu tả:

Hành binh thư bay
Tiến quân rất gấp
Đi lại vùn vụt
Mau chóng như thẩn
Chống không thể được
Đuổi không thể kịp.

Bằng những cuộc hành quân và những trận tập kích chiến lược thân tốc của đạo quân lớn mạnh và tinh nhuệ như vậy, Nguyễn Huệ đã nhiều phen làm cho kẻ địch chưa kịp trờ tay đã bị hoàn toàn tiêu diệt. Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 06 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh và bè lũ phong kiến phản động. Trưa ngày mồng 05 Tết mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung mình mặc áo bào còn sạm mùi thuốc súng, ngồi trên mình voi chiên dẫn đẩu đoàn quân chiến thắng Tây Sơn tiến vào Kinh thành Thăng Long trong sự chào đón nồng nhiệt của nhân dân với niềm tự hào và niềm kiêu hùng dân tộc.

Tư liệu: Lý lịch di tích quốc gia đặc biệt Gò Đống Đa

Sa bàn trận chiến Ngọc Hồi – Đống Đa
Hiện vật tủ trưng bày

Kiếm

Một số vũ khí của quân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII
Kiếm
Hiện vật tủ trưng bày

Đao

Một số vũ khí của quân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII
Đao
Hiện vật tủ trưng bày

Súng hỏa hổ

Súng Hỏa Hổ – một loại ống phun lửa để đánh cận chiến của nghĩa quân Tây Sơn
Súng hỏa hổ
Hiện vật tủ trưng bày

Súng thần công

Súng thần công – thời Tây Sơn tìm thấy ở cảng Thị Nại (Quy Nhơn – Bình Định)
Súng thần công
Hiện vật tủ trưng bày

Dấu ấn

Một số dấu ấn thời Tây Sơn
Dấu ấn
Hiện vật tủ trưng bày

Cờ lệnh 01

Cờ lệnh của nữ tướng Bùi Thị Xuân do những người thân cận làm để trong nhà Từ đường thờ Tổ tiên của dòng họ và nữ tướng.
Cờ lệnh 01
Hiện vật tủ trưng bày

Hỏa cầu lưu hoàn

Hỏa cầu lưu hoàn (tức là trái nổ) thường được quân Tây Sơn dùng trong chiến đấu
Hỏa cầu lưu hoàn
Hiện vật tủ trưng bày

Tiền Quang Trung

Sưu tập tiền Quang Trung Thông Bảo, Cảnh Thịnh Thông Bảo, tìm thấy ở di tích Gò Kho (Phù Cát – Bình Định)
Tiền Quang Trung
Hiện vật tủ trưng bày

Gạch

Gạch xây thành Hoàng Đế, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
Gạch
Hiện vật không gian

Tượng Vua Quang Trung

Tượng Vua Quang Trung
Hiện vật không gian

Tượng Đô Đốc Đặng Tiến Đông

Tương Đô đốc Đặng Tiến Đông – người chỉ huy trận đánh Đống Đa, năm Kỷ Dậu 1789
Tượng Đô Đốc Đặng Tiến Đông
Hiện vật không gian

Bộ Bát Bửu

Bộ Bát Bửu
Hiện vật không gian

Đá ong xây thành Hoàng Đế

Đá ong xây thành Hoàng Đế năm 1778
Đá ong xây thành Hoàng Đế
Hiện vật không gian

Đá tảng

Tảng đá cột đình làng Kiên Mỹ, quê hương sinh trưởng của 3 anh em Tây Sơn
Đá tảng
Hiện vật không gian

Chuông

Chuông chùa Phúc Khánh (đúc thời Cảnh Thịnh)
Chuông
Hiện vật không gian

Dàn cồng chiêng

Dàn cồng chiêng An Khê, Gia Lai
Dàn cồng chiêng
Hiện vật không gian

Trống to

Trống to
Hiện vật không gian

Trống nhỏ

Trống nhỏ
Hiện vật không gian

Bia Mộ tổ

Vào tháng 4 năm 1990 trong quá trình đào đất đổ đường giao thông, nhân dân thôn Phú Lạc đã phát hiện ra một tấm bia đá bị chôn vùi trong đất bùn, bia làm bằng đá xanh có kích thước lần lượt: 125 x 68 x13 cm nặng khoảng trên 200kg, mặt trước của tấm bia có ba hàng chữ chạm chìm rất tinh xảo.

Hàng chữ lớn chính giữa có nội dung “VIỆT CỐ HOÀNG HIỂN TỔ KHẢO CANG NGHỊ MƯU LƯỢC MINH TRIẾT CÔNG CHI LĂNG”

Tạm dịch: Lăng mộ của ông nội đã qua đời của nhà vua nước Việt, ông là một vị mưu lược, minh triết, cương nghị.

Phía bên cạnh là hàng chữ có nội dung: Tuế thứ kỉ hợi trọng xuân cốc nhật – Bia này được lập vào một ngày lành tháng 2 năm kỉ hợi -1779. Phía trái là hai chữ Ngự chế – do đích thân nhà vua làm.

Qua nghiên cứu khẳng định: Đây là tấm bia lăng mộ ông Hồ Phi Khang, ông nội của ba anh em Tây Sơn, lăng mộ này do Nguyễn Nhạc cho xây dựng vào năm 1779 sau khi lên ngôi Hoàng Đế.

Tư liệu: Bảo tàng Quang Trung

Bia Mộ tổ
Hiện vật không gian

Kiệu

Kiệu